HÀNH VI BIẾN TƯỚNG TRONG LỄ HỘI

( Vui lòng kích vào tiêu đề để xem nội dung tương ứng )

VĂN HOÁ ỨNG XỬ KHÔNG ĐÚNG MỰC

Những văn hoá ứng xử không đúng mực khi tham gia lễ hội

– Mặc trang phục không phù hợp với lễ hội;

– Có hành vi chen lấn, xô đẩy; nói tục, chửi thề;

– Xả rác bừa bãi.

Lợi dụng lễ hội để hành nghề bói toán, Thầy cúng lợi dụng lễ hội, sự cả tin của đồng bào để hành nghề bói toán, tuyên truyền mê tín dị đoan để trục lợi,gây ảnh hưởng xấu đến giá trị tốt đẹp của lễ hội truyền thống là hành vi cần phải bài trừ. Lễ hội kéo dài nhiều ngày

– Lễ hội kéo dài nhiều ngày sẽ ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, mùa màng bị đình trệ; nhiều trẻ em vì theo cha mẹ tham gia lễ hội mà bỏ học.

– Cuộc sống các gia đình bị xáo trộn. Hoạt động mua bán hàng hoá

không phù hợp với văn hoá lễ hội

– Lễ hội văn hoá truyền thống, nhưng lại bán những trang phục ngoại lai.

– Âm nhạc từ trong các cửa hàng là nhạc nước ngoài.

(Trích: Tài liệu tuyên truyền giáo dục bài trừ, xóa bỏ hủ tục, dùng trong các trường THPT tỉnh Hà Giang)

NHỮNG NGUY CƠ XÂM HẠI VÀ HÀNH VI KHÔNG ĐÚNG MỰC

– Coi lễ hội là dịp để bày trò mua vui, thoả mãn trí tò mò sở thích mạo hiểm của một số người.

Điều này xảy ra đối với những người đi lễ hội nhưng không hiểu gì về ý nghĩa tâm linh, những giá trị lễ hội.

Ví dụ:

+ Không hiểu về Lễ hội Nhảy lửa, tham gia nhảy lửa dẫn tới nguy cơ bỏng nặng, thậm chí tử vong;

+ Hành vi ứng xử thiếu chuẩn mực: Chen lấn, xô đẩy; nói tục, chửi thề xúc phạm tâm linh; ăn mặc hở hang;

+ Khách tham quan, khách du lịch không hiểu về lễ hội, khi tham gia lễ hội sẽ có thể phá vỡ giá trị hoạt động và ý nghĩa văn hoá của lễ hội: Tham gia vào hoạt động “cướp vợ”, tham gia vào các trò chơi dân gian…

– Lợi dụng tín ngưỡng để tổ chức các hoạt động mê tín dị đoan, ảnh hưởng đến tư tưởng và nhận thức của người dân

Một số người hành nghề tín ngưỡng tâm linh lợi dụng lễ hội và sự thiếu hiểu biết của người dân để cúng bái, cầu an, giải hạn, đuổi tà ma, chữa bệnh… nhằm trục lợi.

– Lễ hội kéo dài trong nhiều ngày.

Lễ hội kéo dài nhiều ngày có thể gây tốn kém chi phí. Những người tham gia lễ hội ăn uống, vui chơi, xả rác bừa bãi, vi phạm an toàn giao thông…

– Thương mại hoá hoạt động lễ hội

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường lễ hội có nguy cơ bị mai một và bị thương mại hóa chi phối; xuất hiện hiện tượng

mua bán, chặt chém tại lễ hội. Các hoạt động văn hoá truyền thống dễ bị thay thế dần bởi các hoạt động hiện đại hóa như: Hoạt động mua bán các sản phẩm ngoại lai, hàng giả, hàng kém chất lượng…

(Trích: Tài liệu tuyên truyền giáo dục bài trừ, xóa bỏ hủ tục, dùng trong các trường THPT tỉnh Hà Giang)

BIẾN TƯỚNG TRONG TRANG PHỤC

Trang phục truyền thống

Là một yếu tố quan trọng làm nên bản sắc của mỗi dân tộc. Thế nhưng, trước sự phát triển kinh tế, giao lưu của nhiều nền văn hoá, những dấu hiệu biến tướng của trang phục dân tộc truyền thống ở Hà Giang có thể nhận diện: Việc sử dụng, bày bán các trang phục dân tộc truyền thống nhưng cách tân, cải biên khác xa với bản gốc ngày càng nhiều trong các chợ phiên, các lễ hội. Những bộ váy Mông có hoạ tiết lấp lánh kim tuyến, chất liệu, kiểu dáng và đường nét khác lạ so với trang phục truyền thống ngày càng trở nên phổ biến. Những chiếc áo dài nhuộm chàm thuần tuý, không thêu họa tiết, thể hiện cho tính cách giản dị, đôn hậu của phụ nữ dân tộc Tày đang dần bị thay thế bởi các trang phục cách tân, hiện đại… 

Nguyên nhân gây biến tướng trang phục

Để tạo ra bộ trang phục truyền thống cần mất nhiều công sức và chi phí. Vì thế, khi những trang phục dân tộc có hình thái gần giống nhưng giá thành rẻ đã cuốn hút mọi người lựa chọn mà không biết những nguy cơ tiềm ẩn, xâm hại đến văn hoá dân tộc. Việc thiếu hiểu biết về văn hoá trang phục truyền thống là nguyên nhân dẫn tới ý thức bảo tồn trang phục mất dần đi, thay vào đó là thói quen mua sẵn những trang phục truyền thống của dân tộc mà không rõ nguồn gốc.

Hậu quả

Trang phục dân tộc truyền thống là cơ sở để định vị, nhận diện bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Nếu trang phục truyền thống dân tộc em bị biến tướng, giá trị bản sắc văn hoá sẽ bị lệch lạc, mất dần. Vậy em là ai?

Về lâu dài, những biến tướng về trang phục dân tộc truyền thống sẽ tác động đến thói quen, nhận thức, hành vi trong ăn mặc, sự nhìn nhận lệch lạc của các thế hệ sau về trang phục truyền thống, tạo nên những hệ lụy khôn lường, thậm chí là sự biến mất hệ giá trị văn hoá của một dân tộc. Biến tướng văn hoá có thể thay đổi về chuẩn mực ổn định trong xã hội.

BẠN CẦN BIẾT!

Trang phục truyền thống là một biểu trưng của văn hoá, góp phần phản ánh phong tục, tập quán, vẻ đẹp và bản sắc riêng của mỗi dân tộc.

(Trích: Tài liệu tuyên truyền giáo dục bài trừ, xóa bỏ hủ tục, dùng trong các trường THPT tỉnh Hà Giang)

QUY ĐỊNH VỀ VIỆC THỰC HIỆN NẾP SỐNG VĂN MINH

Thông tư số 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21 tháng 01 năm 2011 Quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội

Mục 3. Nếp sống văn minh trong lễ hội

Điều 12. Tổ chức lễ hội

1. Tổ chức, cá nhân, khi tổ chức hoặc tham gia lễ hội, phải thực hiện các quy định sau:

a) Nghi thức lễ hội phải được tiến hành trang trọng, phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc;

b) Trong khu vực lễ hội, cờ Tổ quốc phải được treo nơi trang trọng, cao hơn cờ hội, cờ tôn giáo; chỉ treo cờ hội, cờ tôn giáo tại địa điểm lễ hội và trong thời gian tổ chức lễ hội;

c) Thực hiện đúng nội quy, quy định của Ban tổ chức lễ hội;

d) Trang phục đẹp, lịch sự, phù hợp với thuần phong mỹ tục;

đ) Không nói tục, xúc phạm tâm linh và ảnh hưởng xấu tới không khí trang nghiêm của lễ hội;

e) Bảo đảm trật tự, an ninh khi dự lễ hội; không đốt pháo, đốt và thả đèn trời;

g) Ứng xử có văn hoá trong hoạt động lễ hội;

h) Bỏ rác vào nơi quy định, giữ gìn vệ sinh môi trường;

i) Không bán vé vào dự lễ hội;

k) Nếu tổ chức các trò chơi, trò diễn, biểu diễn nghệ thuật, hội chợ, trưng bày triển lãm trong khu vực lễ hội thì được bán vé cho các hoạt động đó; giá vé thực hiện theo quy định của pháp luật về tài chính;

l) Nghiêm cấm lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan như xem số, xem bói, gọi hồn, cầu cơ, sấm truyền, yểm bùa, trừ tà, phù phép chữa bệnh;

m) Không đốt đồ mã trong khu vực lễ hội.

2. Khuyến khích các hoạt động sau trong tổ chức lễ hội:

a) Tổ chức giới thiệu ý nghĩa lịch sử của lễ hội, giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam;

b) Tưởng nhớ công đức của ông cha, ghi nhận công lao của các bậc tiền bối trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc;

c) Tổ chức các trò chơi dân gian, trò chơi mới và các hoạt động văn hoá, thể thao có nội dung bổ ích, lành mạnh, phù hợp với quy mô, tính chất, đặc điểm của lễ hội;

d) Thắp hương theo quy định của Ban tổ chức lễ hội.

Nghị định số 110/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ quy định về quản lý và tổ chức lễ hội.

Điều 5. Nguyên tắc tổ chức lễ hội

1. Việc tổ chức lễ hội nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tôn vinh công lao các bậc tiền nhân, nhân vật lịch sử, những người có nhiều đóng góp trong quá trình hình thành, phát triển đất

nước; tuyên truyền giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc của di tích, truyền thống tốt đẹp của lễ hội.

2. Lễ hội phải được tổ chức trang trọng, thiết thực, hiệu quả; phù hợp với quy mô, nội dung của lễ hội; tổ chức lễ hội truyền thống theo đúng bản chất, ý nghĩa lịch sử văn hóa; giảm tần suất, thời gian tổ chức lễ hội văn hóa.

3. Nghi lễ của lễ hội phải trang nghiêm, bảo đảm truyền thống; không thực hiện nghi lễ có tính bạo lực, phản cảm, trái với truyền thống yêu hòa bình, nhân đạo của dân tộc Việt Nam.

4. Giáo dục, định hướng con người hình thành các hành vi, thái độ, nhận thức cao đẹp; loại bỏ xu hướng chạy theo lợi ích vật chất, lòng tham và các lợi ích cá nhân.

5. Phải thực hiện các biện pháp bảo vệ di tích, danh lam thắng cảnh; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng chống cháy nổ, an toàn giao thông và vệ sinh môi trường.

6. Không lợi dụng việc tổ chức lễ hội nhằm mục đích trục lợi cá nhân, phục vụ lợi ích nhóm; không ép buộc tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp kinh phí tổ chức lễ hội.

7. Hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn lực trong việc tổ chức lễ hội; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Điều 6. Quyền và trách nhiệm của người tham gia lễ hội

1. Người tham gia lễ hội có các quyền sau

a) Thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với bậc tiền nhân, nhân vật lịch sử, tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng;

b) Thể hiện mong muốn Điều tốt đẹp, may mắn đến với cá nhân, gia đình, quê hương và đất nước;

c) Được giao lưu, sinh hoạt văn hóa và hưởng thụ những giá trị văn hóa tinh thần.

2. Người tham gia lễ hội có các trách nhiệm sau

a) Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật; nội quy thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội;

b) Ứng xử có văn hóa trong hoạt động lễ hội; trang phục lịch sự, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam; không nói tục, chửi thề xúc phạm tâm linh, gây ảnh hưởng xấu tới không khí trang nghiêm của lễ hội;

c) Thắp hương, đốt vàng mã đúng nơi quy định; không chen lấn, xô đẩy gây mất trật tự an ninh; giữ gìn vệ sinh môi trường;

d) Không tổ chức hoặc tham gia các hoạt động mê tín, dị đoan, cờ bạc và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

đ) Không thực hiện việc đổi tiền có chênh lệch giá trong khu vực di tích, lễ hội;

e) Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngoài việc chấp hành nghiêm quy định tại các điểm a, b, c, d và đ Khoản 2 Điều này còn phải thực hiện các quy định sau: không đi lễ hội trong giờ hành chính; không dùng xe công và các phương tiện công (hoặc thuê khoán phương tiện) tham gia lễ hội (trừ trường hợp thuộc thành phần tham gia tổ chức lễ hội hoặc được giao thực thi nhiệm vụ).

Điều 20. Trách nhiệm quản lý nhà nước về lễ hội của Ủy ban nhân dân các cấp

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội trên địa bàn theo thẩm quyền, có các nhiệm vụ sau đây:

a) Chỉ đạo thực hiện kiểm kê, phân loại lễ hội, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa lễ hội; xây dựng đề án, đề tài nghiên cứu khoa học nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội;

b) Bảo đảm hoạt động lễ hội được tiến hành trang trọng, đúng nghi lễ truyền thống; loại bỏ hoặc thay thế những tập tục không còn phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển;

c) Chỉ đạo các sở, ban, ngành địa phương trong việc phối hợp quản lý và tổ chức lễ hội; bảo đảm trật tự an toàn xã hội và thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội;

d) Tổ chức, hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động lễ hội tại địa phương;

đ) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong hoạt động lễ hội theo thẩm quyền;

e) Báo cáo định kỳ việc quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn gửi về Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trước ngày 31 tháng 12 hàng năm và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;

g) Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn; tiếp nhận nội dung đăng ký hoặc thông báo tổ chức lễ hội quy mô cấp huyện hoặc cấp xã; kiểm kê, phân loại lễ hội và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động lễ hội tại địa phương.

(Trích: Tài liệu tuyên truyền giáo dục bài trừ, xóa bỏ hủ tục, dùng trong các trường THPT tỉnh Hà Giang)