1. Coi trọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi
Tự nguyện trong tình yêu và hôn nhân là điều quan trọng, quyết định hạnh phúc của cha mẹ và hạnh phúc của con cái
trong gia đình. Các dân tộc ở Hà Giang có bề dày truyền thống văn hoá, luôn coi trọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Nam nữ đến tuổi
trưởng thành được tự do tìm hiểu, tự do yêu đương, đồng thuận kết hôn, không chịu sự ép buộc bởi tục lệ lạc hậu. Điều đó được lưu
truyền qua các tập tục trong hôn nhân, tiêu biểu như tục “Kéo vợ” của dân tộc Mông.
Người Mông có tục lệ “Kéo vợ”, bắt nguồn từ câu chuyện của đôi trai gái yêu nhau tha thiết và mong muốn được kết
hôn, có sự đồng ý và chúc phúc của cha mẹ hai bên gia đình. Nhưng chàng trai người Mông vì gia cảnh nghèo khó, không thể
đáp ứng được tục lệ thách cưới của nhà gái và dòng tộc. Không cam chịu trước nghịch cảnh, nhằm phản đối hủ tục lạc hậu, đôi
trai gái dân tộc Mông đã quyết định đặt cha mẹ hai bên vào “sự đã rồi” bằng một màn “kéo vợ” vào ngày hội xuân
Cô gái chỉ “giả vờ” chống cự nhưng cuối cùng sẽ bằng lòng, theo về nhà trai. Trong 3 ngày ở nhà chàng trai, cô gái ở một phòng riêng, được tiếp đón như một người khách. Qua 3 ngày, cô gái không thay đổi ý định kết hôn, nhà trai sẽ mang sính lễ đến nhà cô gái dạm hỏi. Hai gia đình chọn
ngày lành tháng tốt tổ chức đám cưới cho 2 người. Tục “kéo vợ” là một nét đẹp văn hóa mang tính truyền thống trong hôn nhân của đồng bào dân tộc Mông. Tục lệ này được coi là một nét đẹp văn hóa khi cả nam, nữ đều đồng thuận kết hôn và tuân thủ đúng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
2. Hát đối trong lễ cưới
Trong lễ kết hôn của đồng bào các dân tộc Hà Giang, những lời ca, tiếng hát đối đáp qua lại giữa 2 họ là nét đẹp văn hoá đặc sắc, ngày nay còn được lưu truyền trong một số dân tộc thiểu số ở Hà Giang. Hát Quan làng, hát xin dâu Quan làng: Chỉ người đại diện đưa và đón dâu của hai họ nhà trai và nhà gái. Hát Quan làng là lời hát của ông quan làng nhà trai và nhà gái khi đến xin và đưa dâu. Người Tày ở Hà Giang có truyền thống hát Quan làng trong lễ cưới. Đây là nét văn hoá đẹp, hiện nay được lưu truyền phổ biến trong đám cưới người Tày ở các huyện Quang Bình, Bắc Quang, Vị Xuyên…
Hát đối đáp xin dâu
Người Mông ở một số nơi như Đồng Văn, Mèo Vạc, Bắc Quang vẫn còn duy trì truyền thống hát đối đáp xin dâu. Mỗi nghi thức trong đưa, đón dâu đều có bài hát riêng, khiến cho không khí đám cưới rất sôi nổi.
Lời hát đối Quan làng, xin dâu là những làn điệu dân ca về lòng biết ơn đối với tổ tiên, về tình yêu gia đình; lời xin dâu; những lời dặn dò đôi trẻ về bảo vệ nề nếp gia phong, văn hoá ứng xử với gia đình và xã hội, chăm chỉ làm ăn và nuôi dạy con cái. Lời các bài hát rất dài và khi hát phải sáng tạo theo tình huống, do vậy phải là những người có năng khiếu mới có thể làm Quan làng, hát đối đáp xin dâu trong đám cưới.
Hát Páo Dung
Người Dao có hát Páo Dung là một loại hình dân ca Dao trong lễ cưới và những lễ hội khác. Lời ca Páo Dung xuất phát từ cuộc sống và lao động sinh hoạt hàng ngày của con người. Qua lời ca, người Dao gửi gắm được tất cả các cung bậc tình cảm giận hờn, yêu, ghét, hy vọng, thành kính, vui sướng hay đau khổ… Lời ca Páo Dung là sự đúc kết những mong ước tốt đẹp của người dân về mùa vụ, thời tiết đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, làng bản con người; ca ngợi tình yêu của đôi lứa…
Hát đối
Người Giáy có hát đối. Hát đối diễn ra khi đoàn nhà trai đến đón dâu, trưởng đoàn nhà trai phải hát đối đáp với nhà gái, nội dung xin nhà gái bỏ vật chướng cản đường bởi những sợi chỉ hồng và mây cành gai.
3. Phong tục cưới hỏi
Phong tục cưới hỏi của đồng bào dân tộc thiểu số ở Hà Giang đều có những thủ tục và nghi thức cưới hỏi mang đậm những phong tục riêng của dân tộc mình. Tuy nhiên đa phần khá tương đồng và căn bản gồm 3 nghi lễ chính: lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới.
Người Tày
Lễ cưới của người Tày trải qua các nghi thức như:
– Dạm hỏi: xem nhà gái có ưng không;
– Lễ ăn hỏi: nhà trai mang đồ sính lễ (đôi gà, đôi chai rượu) đến nhà gái làm lễ nhận dâu, nhận rể;
– Lễ lấy lá số: nhà trai sang nhà gái xin lá số của cô gái về xem ngày tốt để làm đám cưới;
– Lễ cưới: Nghi lễ trong đám cưới của người Tày, nhất là thủ tục chính thức cô dâu chú rể xin phép để về nhà chồng khá phong phú như: căng dây chặn đường; xin nước rửa chân; tục giữ cửa; tục xin trả chiếu; hát mời nước, mời trầu, nộp lễ, xin đón dâu… hay việc cô dâu phải đội nón suốt dọc đường đến nhà trai là một nghi thức quan trọng, có ý nghĩa trên đường về nhà trai, đoàn luôn gặp may mắn, phù hộ cho đôi vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc, thuận lợi về đường con cái cũng như trong làm ăn.
Người Pu Péo
Việc cưới hỏi của người Pu Péo được tiến hành khá độc đáo và phải trải qua các bước như lễ dạm hỏi, lễ hỏi, lễ xin dâu, lễ đón dâu và lễ lại mặt. Trong ngày cưới, đoàn đón dâu sẽ ở nhà gái 1 đêm. Trước khi đoàn đón dâu tới, nhà gái kê bàn đặt ngang cửa, mời rượu. Sáng hôm sau, khi làm xong lễ gia tiên, phù dâu sẽ cõng cô dâu ra khỏi cổng để về nhà chồng. Trong tiệc cưới tại nhà trai, tất cả mọi người đều phải ăn bốc, kể cả cô dâu, chú rể và khách đến chung vui. Lễ lại mặt lần đầu được tiến hành sau lễ cưới 3 ngày. Tiếp đó, đô vợ chồng trẻ sẽ phải trở lại nhà vợ ba lần nữa (sau ngày cưới 7 ngày, 13 ngày và một tháng).
Người Nùng
Để tiến tới hôn nhân, người Nùng phải thực hiện trang trọng các nghi lễ như: dạm hỏi, ăn hỏi, thách cưới, lễ cưới, lễ lại mặt và một số tục lệ khác. Trong đó, lễ cưới là một nghi lễ đặc biệt đã lưu truyền trong đời sống người Nùng qua nhiều thế hệ. Theo tục lệ truyền thống, người Nùng không có tập quán ăn hỏi là cưới ngay, phía nhà trai bao giờ cũng phải chờ đợi một thời gian (từ 2 đến 3 tháng trở lên).
Khi đoàn nhà trai đến nhà gái đón dâu. Các cô gái bên nhà gái mang nước đợi ở bên cầu thang, chờ dịp té nước vào chú rể và một số thành viên trong đoàn. Ý nghĩa của việc này là để xua đuổi bệnh tật, vận hạn của chú rể. Sau khi té nước xong đoàn đón dâu mới được vào trong nhà.
Đoàn đưa dâu ra khỏi nhà cô dâu phải cưỡi ngựa, không được đi bộ đến nhà trai. Khi rước dâu về đến nhà trai, cô dâu một tay cầm bó lúa, một tay cầm ống nước (được nhà trai chuẩn bị) đi lên nhà, sau đó đặt bó lúa lên gác bếp, đổ ống nước vào chảo (đã được bắc sẵn trên bếp). Ý nghĩa của việc làm này là răn dạy con dâu mới phải chăm chỉ, đảm đang; vào nhà nấu canh ngon, cơm dẻo; ra đồng lúa, ngô nặng hạt, trĩu bông.
Người Bố Y
Trước khi tổ chức lễ cưới chính thức, nhà trai nhờ người mai mối đến nhà gái dạm hỏi. Nếu nhà gái đồng ý, lễ cưới được tiến hành theo ba bước: Ăn hỏi (thống nhất các điều kiện, thời gian tổ chức đám cưới), Lễ cưới nhỏ (nhà trai mang lễ đến tổ chức vui cùng nhà gái) và Lễ cưới chính thức. Điểm nổi bật trong đám cưới của người Bố Y là chú rể không được đi đón dâu. Em của chú rể sẽ dắt theo con ngựa hồng đẹp nhất để đón chị dâu về nhà chồng. Khi về nhà chồng, cô dâu mang theo một chiếc kéo và một con gà mái nhỏ, đi đến nửa đường thì thả gà vào rừng.
Khi về đến nhà trai, cô dâu và chú rể sẽ được làm lễ cúng ngoài sân trước để xua đuổi tà ma, cái xấu, sau đó vào nhà làm lễ bái thiên địa, bái cao đường. Sau các thủ tục nghi lễ cưới, họ hàng bà con, bạn bè của gia đình vui vẻ chúc mừng hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.
Người Giáy
Trước khi tổ chức lễ cưới chính thức, người Giáy phải thực hiện trang trọng các nghi lễ truyền thống như: thả mối mai (dạm hỏi) và mai mối lai (mặc cả). Hai nghi lễ này chủ yếu bàn luận về hôn nhân của đôi bạn trẻ, thống nhất ngày “đoạn lời”, từ đây, đôi bạn trẻ đã được công nhận là vợ chồng. Sau khi đoàn đón dâu vào nhà, nhà gái bôi phẩm đỏ vào má từng người nhà trai. Sau thủ tục xin dâu xong, chị gái cõng cô dâu ra khỏi cửa trao cho nhà trai, nhà trai cử một phụ nữ khỏe mạnh đón và cõng cô dâu đi. Nếu gần thì phải cõng đến tận nhà, ở xa phải đi ngựa… Những phong tục này tuy có được cải tiến hơn so với trước đây, nhưng cơ bản vẫn giữ cho đến ngày nay.
4. Tự may trang phục cho ngày cưới
Để chuẩn bị cho ngày cưới, cô dâu thường tự tay chuẩn bị trang phục truyền thống dân tộc để mặc vào ngày cưới. Đây là nét văn hoá đẹp, thể hiện khả năng may vá khéo léo, tỉ mỉ, chịu khó của các cô dâu dân tộc thiểu số. Tự may trang phục chongày cưới là sự khẳng định chỗ đứng của giá trị trang phục truyền thống dân tộc trước những tác động, xâm hại từ trang phục hiện đại, rất cần được lưu truyền, bảo tồn, phát huy giá trị.
Cô dâu Pà Thẻn
Theo phong tục người Pà Thẻn, trước khi cưới, cô dâu phải tự tay thêu, dệt cho mình bộ váy áo thật đẹp mặc trong ngày cưới. Trang phục của cô dâu Pà Thẻn có sắc đỏ rực rỡ và được mặc hai bộ lồng vào nhau, có thắt dây lưng, một dây đen, một dây trắng; khăn vấn quanh đầu, hai đầu khăn có đính hai chùm tua rua màu vàng, đỏ trông đẹp và lạ mắt. Khăn có hai loại là khăn quấn trong màu đen và khăn quấn ngoài màu đỏ. Sự độc đáo trong trang phục nữ của người Pà Thẻn được thể hiện ở lối tạo dáng áo dài, kỹ thuật ghép vải và thêu chỉ màu hài hòa; xen giữa các mảng dệt hoa văn là các họa tiết thêu bằng tay với nhiều màu sắc sặc sỡ. Những tấm thổ cẩm đẹp, những đường thêu, mũi chỉ, hoa văn trang trí trên bộ áo váy của các thiếu nữ chính là điểm để những chàng trai nhận biết về sự khéo léo, đảm đang của cô gái mà họ sẽ ướm hỏi làm vợ sau này.
Cô dâu Lô Lô
Với bản tính cần cù, chăm chỉ, cô dâu Lô Lô khi về nhà chồng cũng phải tự tay may trang phục với các họa tiết vô cùng tinh xảo và đẹp mắt. Để làm ra một bộ trang phục như vậy, những người phụ nữ phải mất khoảng 4 năm. Khoảng thời gian ấy không chỉ là sự kiên trì, vất vả và đôi bàn tay khéo léo của họ, mà đó còn là nơi họ gửi gắm trọn vẹn khát vọng hạnh phúc tình yêu qua những mũi kim, sợi chỉ.
Cô dâu Bố Y
Trong ngày cưới, cô dâu người Bố Y thường mặc bộ trang phục truyền thống đẹp nhất do chính mình tự may gồm: áo trong và áo ngoài. Viền cổ áo, ống tay áo được khâu hay thêu trang trí hoa văn sặc sỡ. Hai vạt trước của áo có hai túi nhỏ cân xứng nhau thường để đựng tiền hay đồ dùng cá nhân và thường may bằng vải thô, nhuộm chàm.
Đặc biệt, trang phục phụ nữ Bố Y đẹp và đặc sắc là nhờ chiếc khăn đội đầu, váy và tạp dề phía trước. Váy của phụ nữ Bố Y được dệt nhiều màu sắc như xanh, tím, ghi và chàm. Bộ trang phục truyền thống thường được mặc trong các dịp lễ hội, cưới hỏi.
(Trích: Tài liệu tuyên truyền giáo dục bài trừ, xóa bỏ hủ tục, dùng trong các trường THPT tỉnh Hà Giang)